Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2011

Thành Phố Người La Mã tại Trung Quốc



Marcus Licinius Crassus


   Trận chiến ở Carrhae đã kết thúc được 53 năm trước khi Chúa Jesus ra đời, vào những ngày cuối tháng 5, với thảm họa đáng xấu hổ của quân đội La Mã. Bảy binh đoàn với sức mạnh vô cùng lớn với 45,000 lính đã bẽ mặt trước 10,000 cung thủ người Pa-Thi.

   Carrhae, một thành phố cổ trong kinh thánh được biết với cái tên là Harran hiện nay thuộc khu vực hướng Đông của Thổ Nhĩ Kỳ.

Người chỉ huy đứng đầu cuộc viễn chinh bất hạnh này là Marcus Licinius Crassus, ở tuổi 62 chức vụ hộ dân già người tích cực thành lập chiến dịch để kiếm danh tiếng và giàu có, thậm chí mặc dù ông ta đã là một trong những người giàu có và quyền lực ở thành Rome.




   Có thể ông ta hành động như vậy bởi vì ông ta ghen tị với thành công của liên minh Pompeius và Caesar, mặc dù ông ta có thể có quyển ngang với họ, thậm chí Pompeius Magnus và Caesar là những nhà quân sự tài giỏi trong khi Crassus thì chỉ dân nghiệp dư trong lĩnh vực quân sự. Chiến thắng duy nhất của ông ấy chiến thắng đẫm máu trước Spartacus, nhưng thành tựu đó đạt được nhờ sự giúp đỡ của Pompeius: sự thật thì ông ta có ít kinh nghiệm và có thiên tài khi bắt đầu những hoạt động vĩ mô ngoài nước.

   Chính phủ cộng hòa đã thật ghê tởm khi để ông ta khởi hành với một quân đội có số lượng quân lớn lên đến 40,000 – 45,000 người, 6,000 con ngựa và 3,500 binh lính tinh nhuệ trong khi không có đe dọa từ hướng Đông, nhưng Crassus cuối cùng tranh thủ giành được hỗ trợ từ Pompeius Magnus và Caesar, những người chưa bao giờ thất bại khi thấy cơ hội giải phóng họ khỏi quyền lực của đối thủ trong khi đang chờ đang bố trí dành ưu ái từ những thành viên khác trong ban hội đồng.




   Trong suốt cuộc tranh luận công khai ở hội đồng nhà nước La Mã một thành viên tòa án tên Ateius cố gắng dừng Crassus lại. Plutarcus viết là, khi ông ta nhận thức được là những nổ lực của ông ta vô hiệu và ông ta không nhận được đủ lá phiếu ủng hộ đủ để ông ta chiến thắng, ông ta đốt lò than và, trong khi đang ném những hạt trầm hương vào lửa, ông ta bắt đầu nguyền rũa Crassus và gọi những vị thần địa ngục. chỉ trích tên và tư cách của Crassus, chúng ta có thể đoán ông ta thì xuất thân từ Etruscan.

   Một vài quân đoàn thủ đô đã tập hợp lại tại Rome và hành quân xuyên qua Campania và sau đó gặp nhau ở Brindisi với những quân đoàn khác tiến đến từ Calabria sau đó rời đi trong sự giận dữ mãnh liệt của sóng biển. Không con tàu nào đến gần được bờ biển.

   Số phận của Crassus, nữ thần mù đã bên cạnh ông ta suốt thời trai trẻ: ông ta khi sinh ra không bị tổn hại từ nội chiến; sau đó ông bị lôi kéo vào trong âm mưu Catiline nhưng ông ta đã tránh được những hậu quả; ông ta đã trả khoản nợ từ những tiêu xài hoang phí của Caesar trong khi keo kiệt với chính bản thân và gia đình ông ta.

   Nhưng những suy nghĩ thay đổi, ông ta đang già đi và bắt đầu thiếu minh mẫn, mắc nhiều sai lầm và nghiêm trọng.

   Cho VD, trong một lời nói của người là lính của ông ấy, ông ta đã tuyên bố là ông ta sẽ xóa sổ một cái cầu “để không một người lính nào của ông ta có thể quay lại”. Lời tuyên bố của ông ta đã làm mất tinh thần trên nét mặt của họ. Crassus tự trừng phạt bản thân ông ta, giải thích cho hành động đó là ông ta đổ lỗi cho kẻ thù, không phải lổi của lính ông ta.

   Ông ta ra lệnh phân phối cây đậu lăng và muối cho những người lính, để quên đi sự thật là những món ăn này là bữa ăn dành cho lễ tang.

   Điềm xấu báo trước xảy ra khi Crassus để rơi bộ lòng trơn tuột của động vật được hiến tế, bộ lòng đặt trong tay của ông ta bởi người tiên tri La Mã cổ. Crassus cố gắng sửa chữa lỗi lầm của ông ta bằng nước mắt, “Đừng sợ, mặc dù tuổi của ta đã cao nhưng cán kiếm của tôi sẽ không rời khỏi tay tôi”. 

   Vào ngày chiến trận, Crassus mang quân phục màu đen, thay vì màu tía cho những người chỉ huy ở La Mã. Thậm chí mặc dù Crassus nhanh chóng quay lại lều của ông ta để thay đổi, ông ta rời khỏi trước sự kinh ngạc của những người chỉ huy. Chúng ta có thể tưởng tượng những sĩ quan này nhìn theo ngón tay của ông ấy (“fare le corna”, ngòn tay trỏ và ngón út báo hiệu, cử chỉ làm diệu có hiệu quả thực sự nó có nguồn gốc từ người Etrusca) và túm lấy thân người họ.

   Hơn nữa, Crassus từ chối lắng nghe những người lính kỳ cựu của ông ta, những người ủng hộ việc hành quân trên bờ biển và tránh xa sa mạc để tìm kiếm thủ đô người Pa-Thi. Đúng hơn là, ông ta đã tín nhiệm Arimanes người Ả-rập và 6 nghìn kỵ binh của của ông ta, người này đã bí mật đứng về phe người Pa-Thi và từ bỏ những người La Mã một vài phút trước khi cuộc chiến bắt đầu.

   Crassus, đang đối phó với kẻ thù, ông đã lệnh cho binh lính từ góc vuông, xếp chặt lại giống như hộp cá mồi, thay cho phân bố họ để số phận họ kết thúc như là cuộc tàn sát bởi cung tên của kẻ thù trước khi họ có thể cố gắng phản ứng lại.

   Người Pa-Thi với kĩ năng gấp người trên lưng ngựa, họ có thể sử dụng cung phản xạ với những cú bắn chính xác: cung phản xạ với những đường mép uốn cong lại, chẳng hạn như cung được sử dụng bởi người Mông Cổ và Trung Quốc. những cây cung này tăng gấp đôi sức mạnh của những mũi tên làm cho tên khi bắn đến một khoảng cách lên đến 400m- vì vậy chúng gây chết người như đạn của súng AK. Loại cung này là phát minh của người Trung Quốc, và sau này được hoàn thiện bởi người Trung Quốc ở thế kỷ 16, với những mũi tên có khả năng vươn đến hơn 600 m.



Trận chiến ở Carrhae





Cung phản xạ (Reflex Bow)



   Thấy được mối nguy hiểm, con của CrassusPublius, cố gắng phá vòng vây với một nghìn kỵ binh xứ Gaul, nhưng cuộc đột phá của ông ta đã thất bại, họ bị giết và số còn lại bị bắt làm tù binh. Đầu của Publius đặt trên ngọn giáo và đưa ra cho những người La Mã và cha ông ta thấy, vào thời điểm bi thảm này chúng ta có thể thấy duy nhất thoáng qua tính vĩ đại của người La Mã ở trong người Crassus, người không cho một khoảng thời gian dừng lại cuộc chiến giống như một người già ngu ngốc, như ông ta nói với binh lính của ông ta giữ vững vị trí tiếp tục chiến đầu, và cái chết của con ông ta chỉ tổn thương bản thân ông ta, không phải binh lính của ông ta. Người Pa-Thi bắn phá vị trí người La Mã cả ngày, khiến cho 30,000 kẻ hung tàn xếp nép trong khiên chắn, trong bức tường đẩm máu của da thịt bị tên xiên và họ dần mất đi dũng khí, bị thiêu cháy dưới cái nóng ở sa mạc trong sân của của thần chết.

   Lúc hoàng hôn, Crassus chấp nhận thương lượng với kẻ thù nhưng ông ta đã bị bắt giữ trong một cạm bẫy và ông ta đã bị chặt đầu. 20,000 người La Mã đã chết trong một ngày, 10,000 người bị bắt giữ làm tù binh, và những người còn lại thì chạy thoát và quay về Ý.

   Thất bại này là một phần được uốn nắn bởi Marcus Antonis một vài năm sau đó và giải quyết khéo léo với người Pa-Thi đã đạt được hòa bình dưới triều Augustus năm 20 TCN khi hiệp ước hòa bình đặt điều kiện và vật tượng trưng cho quyền lực đã mất được khôi phục lại. Người Pa-Thi đồng ý trả lại những biểu tượng đại bàng và những khẩu hiệu của 7 quân đoàn La Mã, nhưng khi Agustus cố gắng thương lượng sự quay về của những tù binh bị bỏ rơi năm 53 TCN, người Pa-Thi xác nhận là không có tù binh để cho hồi hương.

   Thói quen của người Pa-Thi khi bắt tù binh là lộ trang bị hiện tại của họ xuống và tái trang bị cho họ những vũ khí bản địa, họ luôn di chuyển tù nhân và giữ họ ở phía Tây của Turkmenistan, cách sắp xếp như vậy họ sẽ an tâm với lòng trung thành của tù nhân khi chống lại những kẻ thù tồi tệ nhất của họ - người Hung Nô. Những nguồn tài liệu cổ như Pliny dường như ủng hộ giả thuyết này, nó là lời kể đáng giá, khi sử gia người La Mã Horace tuyên bố là những người sống xót thì được gom vào quân đội người Pa Thi và cưới những phụ nữ dân cư bản địa và hầu như chắc chắn điều này xảy đến với những người La Mã xấu số, những người bị đã bị người Pa-thi bắt làm tù binh. Pinilus sử gia người La Mã củng tán thành lý thuyết này để giải thích cho sự biến mất nhiều người đến như vậy.

   Chuyện gì xảy ra sau đó với 10,000 người lính La Mã? Không có câu trả lời hợp lý qua 2,000 năm sau đó, nhà Hán Học người Mỹ, Homer hansenpflug Dubs, đã loan báo một câu trả lời hợp lý trong suốt hội nghị ở Luân Đôn vào năm 1966 được gọi là,”Một thành phố La Mã ở nước Trung Quốc cổ”.

   Dubs đã khám phá trong các ghi chép lịch sử của triều đại nhà Hán có ghi lại việc bắt giữ một đô thị của người Hung Nô, bởi quân đội Trung Quốc, vào năm 36 TCN tại Zhizhi, ngay bây giờ là Dzambul, khu vực gần Tashkent, ở Uzbekistan.

   Bằng chứng này là một ấn tượng sâu ở Dubs là người TQ đã ghi lại khi họ tìm thấy hàng rào làm bằng thân cây, và không thấy kẻ thù sử dụng trước đây và được hính thành trong trận chiến ở cửa của thành phố, cụ thể là, tướng Chen Tang và những binh lính của ông ta đối đầu với một đơn vị lính nhiều hơn 100 người sử dụng chiến thuật riêng, ông ta miêu tả chiến thuật đó như là một “chiến thuật hình vảy cá” những cái khiên chồng lên nhau che chắn thân thể họ trong những loạt tên đầu tiên và che phủ trên đầu cho loạt tên tiếp theo, ông ta nói là chưa bao giờ chứng kiến chiến thuật này trước đó. Dubs cho rằng Đối thủ của Chan Tang có thể là những binh lính Hung Nô, họ hoàn toàn không sống cố định, tất cả họ đều có cuộc sống du mục và bản tính hung tợn. Dubs đã bảo vệ ý kiến là người Hung Nô dính liền với những cuộc diễn tập phức tạp và những việc làm duy nhất là luyện tập và đào tạo thường xuyên, và tăng gấp đôi hàng rào giáo nhọn là tính đặc trưng nhất của bài tập La Mã cơ bản. Một điều được lưu ý là người Hung Nô, trong chiến thuật của họ, việc sử dụng lính và ngựa tương tự như như người Pa Thi. Người Hung Nô sử dụng phong phú nhiều cung thủ cưởi ngựa và kỵ binh đột kích, những đơn vị bộ binh hạng nặng sử dụng thường xuyên bao gồm lính đánh thuê hay một số ít lực lượng có khả năng đặc biệt. Ngay bây giờ đây là tất cả những gì ông ta nói về chiến thuật này, họ tấn công tương tự như chiến thuật “testudo”, chiến thuật này đã tạo nên sự nổi tiếng của người La Mã suốt những cuộc xâm lược cho đến thế kỷ thứ 4 sau công nguyên.



Đường hành trình của quân đội La Mã





Chiến thuật "hình vảy cá" (tuxedo)




   Trong bản báo cáo của tướng Chen Tang đến hoàng đế, ông ta nói rõ là khoảng chừng 1,518 người bị giết,và bắt sống 145 người, 1000 người đầu hàng. 145 người còn sống có thể là lính đánh thuê người La Mã không? Điều này được viết bởi sử gia Ban Gu (32-92) SCN.



Tướng Chen-Tang



   Nhiều tù nhân bị dẩn đi trong thời gian của trận chiến này và họ được đưa ra trình diện để người TQ luyện tập để tăng kỷ năng chiến đấu cho những binh lính của họ, sau đó tù nhân được gia nhập quân đội, và di chuyển xa về hướng Tây bởi sắc lệnh của hoành đế ở thị trấn tên là Li-Jien (nơi nghe như là ở lãnh thổ TQ có từ “legion” và là tên mà người TQ đã gọi thành Rome) ở tỉnh Cam Túc. Những người lính La Mã với 145 người, và được huấn luyện thành người lính bảo vệ những cư dân khỏi những cuộc tấn công của người Tây Tạng. Điều này thì hiếm thấy khi người TQ chỉ định thành phố của họ đặt sau những người man rợ được bổ nhiệm: duy nhất hai người biết nguyên nhân là, Kucha và Wen-siu, hiếm thấy khi cung cấp khu vực rộng lớn dành cho người nước ngoài đến định cư.

Đón xem phần 2: Những bằng chứng thuyết phục

Tổng hợ từ nhiều nguồn: http://www.militaryphotos.net/forums/showthread.php?37148-Lost-Roman-Legion-in-Ancient-China
http://www.archnews.co.uk/featured/5124-a-lost-roman-legion-in-china-part-one.html




2 nhận xét:

  1. Luôn là ước muốn trăn trở của cuộc đời tôi Clean à, đôi khi tìm kiếm điều mà mình hướng tới trong cuộc sống rất khó, đôi khi lại chỉ một chút trở ngại. Và bay lên rồi có hạ cánh được không.... :)

    Trả lờiXóa