Cambyses II đã từng là hoàng đế của Ba Tư (530-522 TCN) và là người kế vị Cyrus vĩ đại. Cambyses II luôn khát khao cạnh tranh với những cuộc chinh phục của cha ông ta, và mở rộng sự cai trị của đế quốc Ba Tư sang tất cả những quốc gia bên kia thế giới (ông ta gọi là khai hóa nền văn minh), Cambyses xâm chiếm Ai Cập năm 525 TCN, đánh bại Pharaoh Psammetichus III. Còn ngày hôm nay ông ta được nhớ đếnkhông phải cho những cuộc chinh phục của ông ta mà cho sự mất tích của quân đội ông ta, một lực lượng gồm 50,000 chiến binh, đã được gửi đi để xâm lược những quốc gia nhỏ bé màu mỡ, quân đội đó đã biến mất trong sa mạc và không một ai sống sót, một vài dấu vết mỏng manh đang bắt đầu khám phá cho 2000 năm sau. Điểm bắt đầu chính là chuyện kể của Cambyses, quân đội mất tích của ông ta được lữ khách cổ đại người Hi Lạp là sử gia Herodotus, một người du hành đến tất cả các nơi ở Ai Cập cho đến năm 75 tuổi sau cuộc xâm lược của Ba Tư.
Herodotus đã đi theo những dấu vết để lại của Cambyses và ghi lại sự cai trị ở vùng mà Cambyses đi qua. Không may tính công bằng của Herodotus đáng ngờ; ông ta là điển hình của người Hi Lạp cổ luôn cò ác cảm trong quan hệ với người Ba Tư và bằng chứng là trong cuốn sử của ông ta thì có vu khống cho Cambyses, vẽ hình tượng Cambyses như một bạo chúa, người điên, mơ hồ và vừa lười vừa vô trách nhiệm. Herodotus đầu tiên kể lại chi tiết Cambyses đã quản lý quân đội của ông ta vượt qua vùng sa mạc Sinai mà vẫn bảo toàn được lực lượng và đương đầu với những người Ai Cập như thế nào, điều đó có liên quan bởi vì nó cho thấy người Ba Tư có năng lực đương đầu với sa mạc, những ốc đảo nhân tạo và cách này đã giuo1 họ có thể sống xót ở vùng chiến sự tốt và đánh bại Psammetichus.
Sau đó, Cambyses du hành đến những trung tâm tôn giáo của người Ai Cập mang vinh dự cho Pharaoh nhưng theo Herodotus, Cambyses đã làm duy nhất chỉ nổ lực mang tính hình thức học về cách tôn trọng phong tục của người Ai Cập. Ông ta sau đó đã quyết định lao vào cuộc chiến vũ trang chống lại người Ai Cập (đánh vào hướng Nam), đánh người Carthaginian từ hướng Tây và “Ammonium” những cư dân của bán đảo Siwa, một vùng đất nhỏ màu mở cùng với sa mạc phía Tây, nơi nổi tiếng cho những lời tiên tri của đền thờ Ammon (cái tên Siwan dành cho chúa của người Ai Cập là Amun-Ra, người mà những người Hi Lạp cổ xem ngang bằng với thần Zeus). Những thầy tu của đền thờ đã được sử dụng như lệnh của những người cai trị ở Ai Cập, người được cho là đạt được ân huệ từ thần thánh và hợp pháp cượng vị chúa tể của họ. Alexander đại đế chắc chắn đã làm điều này khi ông ta chinh phục Ai Cập 200 năm sau đó, nhưng dường như ông ta đã thất bại khi đi theo phong tục không đúng cách và khinh thường người Siwa. Cambyses dẫn quân đội của ông ta theo hướng Nam đến sông Nile lao vào cuộc viễn chinh Ai Cập của ông ta, dừng ở Thebes phái một lực lượng gửi đến Siwa năm 524 TCN.
Theo Herodotus, trong quyển sách lịch sử thứ ba của ông ta, một quân đội 50,000 người đứng đầu đã ra lệnh bắt người Ammonia làm nô lệ và đốt đền thờ của thần Zeus. Quân đội đã bắt đầu tiến vào sa mạc, hướng tời thành phố của Oasis, được người Hi Lạp biết đến như “Những quần đảo của sự ban phúc” (ngày nay là Kharga), đi bộ trong bảy ngày để đến hướng Tây. Sau này, họ sẽ không bao giờ được thấy một lần nữa, mặc dù người Siwa bản thân họ không biết làm sao có thể đưa cho Herodotus một lời miêu tả mạnh mẽ về điều gì sẽ xảy ra tiếp theo:
“… đây là điều người Ammonia nói: khi người Ba Tư vượt qua cát của Oasis và tiến đến để tấn công họ, và ở giữa đường, giữa…. Siwa và Oasis, trong khi họ đang ăn sáng một làn gió lớn và mạnh bạo từ hướng Nam xuất hiện, nó đã chôn vùi tất cả bọn họ trong cát , và kể từ đó họ đã biến khỏi tầm nhìn. Như là chuyện kể của người Ammonia về quân đội này.”
Đây là đánh giá đầy đủ, điều gì chúng ta biết về sự mất tích của quân đội Ba Tư, việc này đã làm nhiều học giả nghi ngờ tình tiết quan trọng gì đã xảy ra. Có thể Herodotus đã hoàn toàn bịa đặt câu chuyện về người Cambyses chết thật ngu xuẩn. Tại sao hoàng đế Ba Tư lãng phí thời gian của ông ta lao vào trận chiến ở Siwa ? Tại sao ông ta gửi một lượng lớn quân đội xâm chiếm một nơi nhỏ bé (chắc chắn duy nhất là vài nghìn cư dân không thể làm khó ông ta). Trên hết, tại sao ông ta gửi họ theo tuyến đường đầy hiểm họa với sự chuẩn bị hay phòng ngừa thiếu thốn như vậy ? Herodotus bản thân ông ta đưa ra giả thuyết mặc dù là gián tiếp, một vaì câu trả lời.
Lý do có thể tồn tại cho cuộc viễn chinh là Cambyses đã giận dữ bởi quan điểm của những thầy tu ở đền thờ thần Ammo, người – làm cho ông ta giận dữ khi cho ông ta là ông ta không có quyền được hưởng ngai vàng– để cho cả thế giới dưới triều đại của ông ta là không hợp lý. Họ thậm chí có thể báo trước cái chết của ông ta. Herodotus sục sạo căn nhà là nơi Cambyses đã say rượu và cáu kỉnh, để thỏa lắp thù hận và cơn giận hung tợn, và hoàn toàn có khả năng nuôi dưỡng hận thù gây chết người này. Ông ta đã bị rối trí đủ để ra lệnh cho người của ông ta lên kế hoạch và sự chuẩn bị không đầy đủ.
Một lời giải thay thế là Siwa, Siwa dự kiến là điểm đến cho cuộc hành trình dài. Có thể mục tiêu thật sự là vùng đất xa ở hướng Tây. Cuộc tấn công đã được dự định từ trước của Cambyses vào vùng Carthage được hoãn lại bởi vì người Phoenicia đã từng cung cấp hải quân cho ông ta đã từ chối chống lại người có quan hệ họ hàng với họ, những người đã tạo nên thuộc địa ở Carthage. Có thể ông ta có ý định đến gần Carthage bằng đường bộ - điều này sẽ miêu tả cho kích thước bên ngoài không cân xứng cho lực lượng viễn chinh. Nếu Herodotus đúng, quân đội Ba Tư đã gặp một kết thúc ảm đạm. Khu vực mà họ đã đi qua bao gồm những vùng đất trũng không có cây cối, những tảng đá trơ trụi những mô cát như những tác phẩm điêu khắc từ gió, khu vực rộng lớn của muối và bụi; biển cát bao la, những cồn cát không thể vượt qua được; những con gió sa mạc khô ráp nóng hơn 400C đã thổi cho những ngày cuối cuộc đời của họ; những trận bão cát to lớn sẽ chôn vùi bất kỳ thứ gì đứng trên nó; và hoàn toàn không có nước. Người Ammonia biết về số phận của đoàn quân thì không rõ ràng, họ đã kể rành mạch với Herodotus là không một người lính nào đi đến được Siwa, nhưng có thể họ hoàn toàn làm giả một kịch bản phù hợp với sự mất tích đó.
Herodotus cung cấp một vài manh mối về khu vực có thể tồn tại việc mất tích của quân đội, mô tả lộ trình của quân đội từ Oasis, nơi mà ngày hôm nay là thị trấn chuyên về nông nghiệp như Kharga. Từ đây họ có lẽ sẽ cố gắng để theo lộ trình đoàn người đi buộn truyền thống đã từng đi đến Siwa, nơi đi qua ốc đảo Dakhla (vài trăm km về hướng Tây) và sau đó đi qua Farafra (thêm vài trăm km về hướng Tây Bắc). Từ lời miêu tả của Herodotus nó nghe như mặc dù người Ba Tư có thể đến Dakhla hay thậm chí đến Farafra, nhưng sau đó là sự mất tích của họ khi đang cố gắng hoàn thành chặng đường cuối cùng của cuộc chinh phạt. Thậm chí thu hẹp dần qua quãng đường xa này, tuy nhiên, rời khỏi khoảng không bao la để kiểm tra chi tiết. Nếu người Ba Tư đã mất tích bên ngoài Dakhla và bắt đầu đi sai đường họ có thể có kết thúc hay hơn bất cứ nơi nào ở sa mạc phía Tây.
Bản đồ miêu tả con đưởng chết chóc của quân đội Ba Tư đã đí qua
Sa mạc phía Tây Ai Cập là một trong những nơi gian khổ nhất trên thế giới, nó đang được tìm kiếm cho những dấu tích đã mất. Nó thì rộng lớn, bao phủ hai phần ba diện tích Ai Cập hiện nay; một khu vực 680,000 km vuông (263,000 dặm vuông), ngang với kích thước của nước Úc, Bỉ, Đan Mạch, Hy Lạp, Hà Lan, Na Uy và Thụy Sĩ cộng lại, Những điều kiện được miêu tả bên trên thì khó tin khắc nghiệt và hoang vắng. Thậm chí những phương tiện hiện đại ngày nay với 4 bánh xe và dụng cụ đặc biệt không thể đương đầu với một vài đụn cát lớn ở sa mạc. Nhiều khu vực đã bị hạn chế bởi vì những vấn đề an ninh của khu vực: hàng triệu quả mìn đã được rãi từ đại chiến thế giới thứ II, gần với biên giới Li Bi và nhạy cảm về những hoạt động khai thác dầu và khủng bố. Và ở đó có khả năng xảy ra, bất kỳ sự tìm thấy dầu nào đều vấp phải phản ứng từ bên kia, sẽ sớm được bao phủ bởi những hạt cát sa mạc hay thay đổi này, không bao giờ được thấy một lần nửa.
Trong 10 năm qua có những tường thuật gây hoang mang nhỏ về việc khám phá bên trong sa mạc nghe như tất cả đều tốt và là sự thật. Vào tháng 1-1933, Orde Wingate (nổi tiếng sau đó nhờ đã tạo ra đội quân người Miến Điện, nhóm quân đồng minh đã chiến đấu đằng sau chiến tuyến địch chống lại người Nhật trong suốt thế chiến thứ II,) đã tìm kiếm binh đoàn mất tích của Cambyses ở sa mạc của Ai Cập nhưng không thành công, sau đó được biết sa mạc Li-Bi vào ngày 17 tháng 2-1977, một liên doanh đã ép phóng viên Marcus K.Smith viết câu chuyện tiếp theo có tựa đề: “đoàn quân mất tích đã được tìm thấy.”
CAIRO- những tàn tích của một quân đội xâm lược người Ba Tư bị nạn trong một trận bão cát cách đây 2500 năm được tiết lộ ở vùng sa mạc hướng Tây của Ai Cập. Một sứ mệnh khảo cổ học của người Ai Cập đã khám phá ra 1000 xương người các loại, những thanh kiếm, và giáo của người Ba Tư thuộc quân đội vua Cambyses ở chân núi Abu Balas. Khu vực là một vùng lớn gấp hai lần nước Thụy Sỹ, được biết như “Biển Cát Lớn”. Khảo cổ học gọi nó là một trong những điều bí ẩn vĩ đại tìm thấy trong thế kỷ. Khu vực cách không xa từ Siwa (Amon) Oasis, cách 350 dặm hướng Tây Cairo nơi mà những người lính Ba Tư đã cố gắng hoành thành chuyến đi khi họ bị chôn vùi trong cơn bão sa mạc …
Câu chuyện sau này được chứng minh là một trò lừa…..
Từ tháng 9-1983 đến 2-1984, Gary S.Chafetz, một nhà báo người Mỹ và củng là tác giả, dẫn đầu một cuộc thám hiểm được tài trợ bởi Đại Học Havard, các quốc gia xã hội địa lý, sự nghiên cứu địa chất Ai Cập và cho phép khai thác mỏ, và học viện nghiên cứu Ligabue đã tìm kiếm Quân đội mất tích của vua Cambyses. Sáu tháng tìm kiếm đã dẩn họ tiến tới biên giới Ai Cập-Li Bi trong phạm vi khu vực 100 km vuông hẻo lánh những cồn cát hình thù rắc rối ở hướng Tây Nam của ốc đảo Ba ren hoang vắng, khoảng chừng 100 dặm hướng Đông-Nam của Siwa (Amon) Oasis. 250,000 $ của đoàn thám hiểm dành cho việc sắp xếp 20 người bao gồm nhà địa chất và lao động người Ai Cập, nhà nhiếp ảnh địa lý quốc gia, hai nhà làm phim tài liệu nghiên cứu thuộc trường ĐH Havard, 3 con lạc đà, máy bay siêu nhẹ, và ra đa mặt đất.
Đoàn thám hiểm đã khám phá ra 500 nấm mồ (mồ của các tín đồ Bái Hỏa Giáo) nhưng không có vũ khí. Nhiều mộ chứa đựng những mãnh xương vỡ. Có chất phát quang tạo nhiệt độ ghi ngày tháng sau những mảnh xương vỡ đó đến 1,500 năm TCN khoảng chừng sớm hơn 1000 năm trước vụ quân đội mất tích của vua Ambyses. Nhân sư có cánh nằm nghiêng đã được khắc trên đá vôi củng được khám phá trong một hang động bỏ không ở thuộc ôc đảo Sitra (Giữa Bahrein và ốc đảo Siwa), chúng có nguồn gốc từ người Ba Tư. Chafetz đã bị lôi cuốn khi ông ta quay lại Ai Cập tháng 2-1984 với mục đích “buôn lậu bằng đường hàng không vào Ai Cập”. thậm chí ông ta củng có văn bản khảo sát địa chất Ai Cập và có được phép khai thác khảo cổ và mang máy bay vào Ai Cập. Ông ta đã được thẩm vấn trong 24 giờ. Một khoản tiền đã được gủi sau khi ông ta hứa tặng một khoản tiền nhỏ cho CP Ai Cập.
Theo giáo Mosalam Shaltout, chủ tịch trung tâm nghiên cứu không gian nằm ở học viện nghiên cứu môi trường sa mạc của đại học Minufiya Ai Cập, một một cuộc thám hiểm của người Ý tháng 12-1996 đo trắc địa thiên thạch đã tình cờ gặp khi qua bên có những di tích khảo cổ ở khu vực ốc đảo EL Bahrein ở xa mạc Tây Ai Cập. Aly Barakat, một nhà địa chất với đội của ông ta, tìm thấy một lưỡi trủy thủ và cán kiếm, những mảnh vỡ của đò gốm, những nấm mồ xương người, nhiều mồ chôn, mũi tên và vòng tay bạc, những phác họa cơ bản đã cho ta nhận dạng như điều mong chờ nhất đồ đạc cá nhân thời kỳ vua Achaemenid (người Ba Tư cổ).
Trong lúc đó vào năm 2000, những bản tường thuật đã lan rộng đó là một đội nhà địa chất khảo sát dầu mỏ, họ nói đến từ đại học Helwan ở Cairo, củng có phát hiện tình cờ tương tự khi đi qua vùng di tích và tìm thấy khu vực tương tự, họ dánh dấu lác đác những mũi tên và xương người. Vào năm 2003 nhà địa chất Tom Bown dẫn đầu đoàn thám hiểm đến một khu vực được hộ tống bời nhà khảo cổ học Gail MacKinnon và nhóm làm phim của ông ta bám sát những phát hiện của Aly Barakat, nơi họ tranh luận , họ nói là có bị chặn lại bởi nhà chức trách Ai Cập. Bown đã khẳng định tìm thấy di tích ở một khu vực tương tự, gần ốc đảo El Bahrein, ở một nơi sau đó được đặt tên là Wadi Mastour là một thung lũng ẩn. Trong sự việc theo như tường trình ông ta mô tả khi là đã thấy hàng nghìn xương rải rác trên sa mạc.
Thêm một đoàn thám hiểm tiếp bước năm 2005, tuy nhiên, họ nghi ngờ tính nghiêm túc của những tuyên bố ở hai người là ông Barakat và đồng nghiệp người Ai Cập của ông ta. Một đội đội từ đại học Toledo, ở Ohio, kết hợp với những cộng sự người Anh và Ai Cập, du hành đến nơi gần EL Bahrein. Họ đã xác định một bình vỡ đã tìm thấy bởi ngài Barakat và Bown, mặc dù họ nhận dạng nó thuộc về người La Mã, nhưng họ đã thất bại khi tìm kiếm bất kỳ những dấu tích tương tự khác ở bên kia, một vài khu vực mai táng, nơi họ tuyên bố là không co gì trong sa mạc. Thay cho những khu vực có rãi rác xương người họ đã tìm thấy số lượng lớn mãnh vỡ của những đồng tiền hóa cát.
Tháng 11-2009, hai người nhà khỏa cổ học người Ý là Angelo và Alfredo Castigliioni, loan báo sự khám phá vết tích của con người, những dụng cụ và vũ khí được xác định là vào thời của quân đội Ba Tư Ambyses. Máy bay của họ đã xác định gần ốc đảo Siwa. Theo hai nhà khỏa cổ này đây là bằng chứng khảo cổ đầu tiên trong câu truyện của Herodotus. Trong khi đang làm việc, những nhà nghiên cứu thông báo tìm thấy một cái bình bị chôn một nửa và một vài dấu vết của con người. Sau đó các bạn đồng sự của ông ta dừng lại bởi một điều gì đó gây tò mò – Có thể là một nơi trú ẩn ngoài tự nhiên. Nó như một tảng đá có chiều dài 35m, cao 1.8m và sâu 3m. như hình thành tự nhiên trong sa mạc, nhưng tảng đá này có diện tích lớn.
Tuy nhiên, cả hai nhà khảo cổ người Ý đã đưa ra những khám phá của họ trong một đoạn phim sau hơn là đăng trên một tạp chí khoa học. Nghi ngờ tăng lên bởi vì những đồng sự của Castiglioni củng ngẫu nhiên là hai nhà làm phim người đưa ra 5 phim tài liệu gây sốc vào năm 1970 bao gồm Addio ultimo uomo, Africa ama, và Africa dolce e selvaggia – những bộ phim này cho khán giả thấy những đoạn phim không bị cắt xén về tục lệ cắt bao qui đầu, lột da người chết, phá trinh một cô gái với dương vật bằng đá, và một nhóm thợ săn xé xác một con voi thành từng mảnh. Tổng Thư Ký hội đồng tối cao phong tục xưa Ai Cập, Zahi Hawass, đã nói trước thông cáo báo chí là những bản tường thuật trên các phương tiện tông tin đại chúng “những bằng chứng đó là không có cơ sở và sai lạc” và đó “những đồng sự của Castiglioni được không cấp phép từ SCA để khai quật ở Ai Cập, vậy bất cứ thứ gì họ tuyên bố tìm thấy thì không có thực.
Khám phá của Angelo và Alfredo Castigliioni
Một phần là từ những bí ẩn không giải thích được, số phận đáng thương của quân đội mất tích thuộc vua Cambyses củng cho thấy có khả năng gây tò mò để ở nơi đó có thể tìm thấy một lượng lớn nhiều bộ xương, giáp, nón, vũ khí và dụng cụ hỗ trợ của người Ba Tư cổ đang chờ được khám phá. Quân đội sẽ bao gồm có số lượng quân lính từ nhiều khu vực khác nhau ở thế giới cổ. Trong điều kiện chỉ duy nhất chỉ có tiết trời khô khan với khả năng có thể các bao phủ và bảo vệ, những di tích có thể được bảo quản tốt đến không ngờ. Đó là một kho báu khảo cổ ở một nơi nào đó tại Sahara.
Dựa theo cuốn sách: Lịch sử thất lạc: "Thám hiểm những điều bí ẩn nhất trên thế giới" của Joel Levy
Nguồn: http://unmyst3.blogspot.com/2009/11/lost-army-of-cambyses.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét